Thói quen ăn uống gây hại cho sức khỏe

Thói quen ăn uống gây hại cho sức khỏe

15/06/2024
0
Thói quen ăn uống gây hại cho sức khỏe: WHO khuyến cáo, nhiều người Việt thờ ơ .Có những thói quen khi ăn mà nhiều người vẫn nghĩ là vô hại nhưng thực chất lại tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ gây hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều người lại không mấy để tâm đến và cứ lặp lại những thói quen này. Thậm chí, một số người dù biết là có hại nhưng vẫn thờ ơ. Gà rán, thịt chiên, khoai tây chiên, xúc xích, thịt xông khói, jambon, dưa muối, các món quá nóng... là những đồ ăn được nhiều người lựa chọn nhưng theo khuyến cáo của WHO, các loại thức ăn trên được xếp vào "danh sách đen" ảnh hưởng đến sức khỏe.

Có những thói quen khi ăn mà nhiều người vẫn nghĩ là vô hại nhưng thực chất lại tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ gây hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều người lại không mấy để tâm đến và cứ lặp lại những thói quen này. Thậm chí, một số người dù biết là có hại nhưng vẫn thờ ơ.Gà rán, thịt chiên, khoai tây chiên, xúc xích, thịt xông khói, jambon, dưa muối, các món quá nóng... là những đồ ăn được nhiều người lựa chọn nhưng theo khuyến cáo của WHO, các loại thức ăn trên được xếp vào "danh sách đen" ảnh hưởng đến sức khỏe.Hầu hết, mọi người thường cho rằng việc lựa chọn đồ ăn chủ yếu do thói quen và không nghĩ rằng những loại thực phẩm đó ảnh hưởng đến sức khỏe.

Theo khuyến nghị của WHO, việc ăn các món khi còn nóng có thể khiến hệ tiêu hóa cũng như đường ruột dễ bị tổn thương và những thói quen ăn uống không khoa học sẽ là nguyên nhân kích thích tế bào ung thư phát triển.

Ở Việt Nam, cứ 10 người tử vong thì có 8 người mắc bệnh không lây nhiễm như tim mạch, ung thư, đái tháo đường... Điều đáng nói là hầu hết các bệnh này đều liên quan đến chế độ ăn uống.

Ý kiến bạn đọc
Chủ đề liên quan
Có thể bạn sẽ quan tâm

THÁP DINH DƯỠNG

Để có được sức khoẻ, cần phải có dinh dưỡng hợp lý. Nguồn dinh dưỡng được cung cấp qua các bữa cơm hàng ngày. Một bữa ăn hợp lý phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: – Đủ chất dinh dưỡng cần thiết đối với cơ thể và tỷ lệ các nhóm thực phẩm là phải cân đối. Cụ thể, phải đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm gồm: + Nhóm bột đường: lương thực: cơm gạo, nếp, bột mì, bánh mì, mì, nui, bún, phở, hủ tiếu, khoai, bắp…; + Nhóm đạm: nguồn động vật như thịt, cá, trứng, sữa, tôm tép, cua, lươn…; nguồn thực vật như đậu nành, các sản phẩm chế biến từ đậu nành (sữa đậu nành, đậu hũ, tương, chao…); + Nhóm chất béo: dầu hoặc mỡ, bơ, vừng…; + Nhóm vitamin và muối khoáng: rau xanh và trái cây các loại. Khi chế biến nên sử dụng nhiều loại thực phẩm phối hợp để chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau để tạo nên loại thức ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng và ở tỉ lệ cân đối. – Ngon miệng: món ăn được chế biến cần hợp khẩu vị, vừa gia vị, hấp dẫn, ngon lành và thường xuyên thay đổi. Thức ăn nên ăn ngay sau khi nấu, vừa ngon miệng lại vừa đảm bảo chất dinh dưỡng. – Thực phẩm an toàn: Thực phẩm phải đảm bảo sạch, không độc, không phải là nguồn gây bệnh để giúp cho các chức năng của cơ thể hoạt động tốt. Phải có giá trị phòng bệnh, giúp thể lực chống chọi với bệnh và đảm bảo sức khỏe, tăng cường sinh lực. Phải an toàn không bị nhiễm hóa chất độc, không bị nhiễm giun, sán, nhiễm khuẩn… Các loại thực phẩm chế biến cùng nhau phải hợp, không được kỵ nhau. Như vậy, ngay từ khâu mua thực phẩm người nội trợ cần phải lựa chọn những thực phẩm tươi, sạch phải được sơ chế trong điều kiện an toàn: dùng nước sạch rửa nhiều lần trước khi chế biến, hoa quả cần rửa sạch và gọt vỏ trước khi ăn. – Tiết kiệm, kinh tế: Thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng không nhất thiết là giá cao, cần lựa chọn thực phẩm phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình. Nhiều thức ăn giá rẻ nhưng biết cách lựa chọn, chế biến lại có giá trị dinh dưỡng cao. Các loại cá nhỏ như: cá linh, cá rô đồng, cá duồng, cá dảnh… tuy giá rẻ nhưng thành phần chất đạm cũng gần tương đương với cá chép to, thịt heo nạc… các loại cá này kho nhừ ăn cả xương, còn là nguồn canxi hữu cơ rất tốt giúp phòng chống bệnh còi xương ở trẻ nhỏ và loãng xương ở người lớn. – Duy trì bữa ăn gia đình: mỗi người Việt Nam luôn xem trọng bữa ăn gia đình; vì không khí trong bữa ăn cũng là một trong những môi trường hấp thụ dinh dưỡng tốt cho cơ thể. Trong không khí đầm ấm, hạnh phúc, có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau sẽ kích thích các tuyến tiêu hóa hoạt động giúp mọi người ăn ngon miệng và giúp cho việc tiêu hóa, hấp thu thức ăn được tốt hơn. Nếu không khí căng thẳng, không thoải mái trong bữa ăn sẽ làm người ăn cảm thấy không ngon miệng, là tiền đề ảnh hưởng tới việc tiêu hoá, hấp thụ thức ăn của cơ thể. Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thức ăn chế biến sẵn, hấp dẫn và thuận tiện cho việc ăn nhanh; nhưng giá trị dinh dưỡng thường đơn điệu, nghèo nàn và có thể không đảm bảo an toàn thực phẩm. Người tiêu dùng không nên quá lạm dụng vào các thức ăn bán sẵn; nên tự mình mua và chế biến thức ăn cho bản thân và gia đình mình vừa đa dạng lại vừa ngon miệng, phù hợp với khẩu vị. Người phụ nữ trong gia đình cần có hiểu biết về nhu cầu dinh dưỡng, giá trị dinh dưỡng của từng loại thức ăn, biết cách tổ chức tốt bữa ăn đủ dinh dưỡng, ngon, lành, tình cảm và tiết kiệm. Chúng ta nên dành thời gian và duy trì thói quen tổ chức bữa ăn gia đình đủ chất, ngon miệng, đảm bảo an toàn; vì đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng sẽ có sức khỏe tốt – gia đình luôn hạnh phúc./. Ys. Nguyễn Tấn Lợi – TTYT An Phú

LỢI ÍCH ĂN UỐNG HEALTHY

Cải thiện sức khỏe tim mạch Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ, bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho người lớn ở Mỹ. Huyết áp cao phổ biến ở quốc gia này, tình trạng có thể dẫn đến đau tim , suy tim, đột quỵ. Một số nguồn báo cáo rằng, có thể ngăn ngừa đến 80% sớm bệnh tim, đột quỵ bằng cách thay đổi lối sống, chẳng hạn như tăng cường hoạt động thể chất, ăn uống lành mạnh. Để ngăn ngừa tăng huyết áp, mỗi người nên ăn nhiều rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt. Bạn ưu tiên chọn sản phẩm sữa không béo hoặc ít béo, cá, thịt gia cầm, đậu, các loại hạt, dầu thực vật, hạn chế tiêu thụ chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa, đồ uống, thức ăn có chứa thêm đường. Bạn hạn chế lượng natri mỗi ngày, tăng tiêu thụ kali, magiê và canxi. Thực phẩm giàu chất xơ cũng quan trọng để giữ cho trái tim khỏe mạnh. Hiệp hội Tim mạch Mỹ (AHA) nói rằng, chất xơ giúp cải thiện lượng cholesterol trong máu và giảm nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ, béo phì và tiểu đường loại 2. Giảm nguy cơ ung thư Việc ăn thực phẩm có chứa chất chống oxy hóa có thể làm giảm nguy cơ phát triển ung thư bằng cách bảo vệ tế bào khỏi bị hư hại. Nhiều chất phytochemical tìm thấy trong trái cây, rau, quả hạch, các loại đậu hoạt động như chất chống oxy hóa, bao gồm beta-carotene, lycopene và vitamin A, C và E. Trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu phát hiện, chế độ ăn nhiều trái cây làm giảm nguy cơ ung thư đường tiêu hóa. Họ cũng cho biết,chế độ ăn nhiều rau, trái cây, chất xơ làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, ung thư gan.

10 LỜI KHUYÊN SỨC

1. Ăn đa dạng nhiều loại thực phẩm và đảm bảo đủ 4 nhóm: chất bột, chất đạm, chất béo, vitamin và muối khoáng Không một loại thực phẩm nào có thể cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cho nhu cầu của cơ thể. Chính vì vậy, cách ăn uống thông minh nhất là phối hợp ăn nhiều loại thực phẩm và thường xuyên thay đổi món ăn để cung cấp đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng cho nhu cầu dinh dưỡng phức tạp của cơ thể. Mỗi ngày, mỗi người cần ăn tối thiểu 15 loại thực phẩm đại diện từ 4 nhóm nêu trên. 2. Phối hợp thức ăn nguồn đạm động vật và thực vật, nên ăn tôm, cua, cá và đậu đỗ Đạm động vật có nhiều axit amin cần thiết không thay thế được ở tỷ lệ cân đối nên có giá trị sinh học cao. Thức ăn giàu đạm động vật gồm có: thịt, trứng, cá, sữa, tôm, cua, ếch và các loại thuỷ sản. Các thức ăn thực vật giàu đạm như các loại đậu đỗ thường có ít hoặc không có cholesterol. Trong khẩu phần ăn cần tối thiểu là 1/3 hoặc tốt hơn là 1/2 đạm/tổng số là đạm động vật. Tôm, cua, cá là nguồn chất đạm quý, có đủ các axit amin cần thiết. Mỡ cá có nhiều vitamin A, D; ngoài ra còn có nhiều axit béo chưa no cần thiết và ít cholesterol. Cá, nhất là cá biển có nhiều chất khoáng quan trọng. Mỗi tuần nên ăn từ 2 - 3 bữa cá. 3. Ăn phối hợp dầu thực vật và mỡ động vật hợp lý, nên ăn vừng, lạc Vừng, lạc là thực phẩm giàu chất béo và cũng giàu cả chất đạm. Chất béo của vừng, lạc có chứa nhiều axit béo không no oleic, linoleic và ít cholesterol. Vừng, lạc còn có nhiều vitamin nhóm B. Khi ăn phối hợp chất béo thực vật (dầu, vừng, lạc) với chất béo động vật (mỡ, bơ) tạo nên sự hỗ trợ, cân đối trong cấu trúc bữa ăn. 4. Nên sử dụng muối lốt, không ăn mặn Iốt rất cần cho cơ thể, nhất là phòng bệnh bướu cổ. Chỉ cần sử dụng muối Iốt trong chế biến thức ăn hàng ngày là đủ đáp ứng nhu cầu Iốt cho cơ thể. Nhu cầu muối của cơ thể chỉ cần dưới 5 gam mỗi ngày, tuy nhiên hiện nay người dân Việt Nam đang tiêu thụ lượng muối cao quá nhu cầu cần thiết. Ăn mặn dễ bị tăng huyết áp, dễ bị các bệnh về thận và có thể dẫn đến các nguy cơ như ung thư dạ dày, loãng xương hay hen suyễn. 5. Cần ăn rau, quả hàng ngày Trong rau, quả có nhiều vitamin, chất khoáng cần thiết cho cơ thể. Rau, quả gây thèm ăn, kích thích chức năng tiết dịch của các tuyến tiêu hóa (rau mùi, hành, tỏi...) chống táo bón và quét nhanh chất độc, cholesterol thừa ra khỏi ống tiêu hóa. Một số loại rau, nhất là rau gia vị còn có tác dụng chữa bệnh và là nguồn kháng sinh thực vật quý như hành, tỏi, tía tô... Mức rau quả tiêu thụ cho người trưởng thành cần khoảng 300g/người/ngày; với trẻ em cần lượng từ 100 - 200g/trẻ/ngày. 6. Đảm bảo an toàn vệ sinh trong lựa chọn, chế biến và bảo quản thực phẩm Thực phẩm cần tươi sạch, không chứa các chất bảo quản cấm sử dụng và các hóa chất độc hại; không mang các mầm bệnh đường tiêu hóa như thương hàn, tả, lỵ, viêm gan, giun sán và gây ngộ độc thức ăn do vi khuẩn. Cần chế biến và bảo quản thực phẩm đúng cách để không gây ngộ độc và giữ được các chất dinh dưỡng có trong thực phẩm. 7. Uống đủ nước sạch hàng ngày Nước là một trong những thành phần cơ bản của sự sống, chiếm khoảng 1/2 trọng lượng cơ thể người trưởng thành, ở trẻ em lượng nước chiếm 2/3 trọng lượng. Hàng ngày cơ thể cần được cung cấp khoảng 2.500ml, trong đó qua nước uống khoảng 1.000-1.500ml, số còn lại là nước được cung cấp từ thức ăn. Nên dùng nước trái cây, nước rau, nước chè tươi, nước chè khô không pha quá đặc, nước lá hay nụ vối. Hạn chế các loại nước có ga, nước ngọt, rượu, bia. 8. Cho trẻ bú mẹ ngay sau khi sinh, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, ăn bổ sung hợp lý và tiếp tục cho bú đến 24 tháng Nên cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh để giúp người mẹ nhanh tiết sữa, sữa non có nhiều vitamin A và kháng thể giúp trẻ phòng chống bệnh tật. Chỉ cho trẻ bú mẹ, không ăn, uống bất kỳ thức ăn, nước uống nào ngoài sữa mẹ. Không cho trẻ ăn bổ sung quá sớm với quan niệm là cho trẻ mau cứng cáp. Từ 6 tháng dù mẹ vẫn còn đủ sữa cũng phải cho trẻ ăn thức ăn bổ sung, vì đến thời điểm đó sữa mẹ không đáp ứng đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu của trẻ. Nên cai sữa cho trẻ khi trẻ khỏe và thời tiết mát mẻ sau khi trẻ được 24 tháng. Không cai sữa cho trẻ 12 tháng. 9. Trẻ sau 6 tháng và người trưởng thành nên sử dụng sữa và các sản phẩm của sữa phù hợp với từng lứa tuổi Sữa là thức ăn rất tốt cho mọi lứa tuổi. Có thể sử dụng bổ sung các loại sữa bò, sữa dê, sữa đậu nành và các chế phẩm từ sữa (sữa chua, pho mát...) với lượng thích hợp cho mỗi lứa tuổi. 10. Tăng cường hoạt động thể lực, duy trì cân nặng ở mức hợp lý, không hút thuốc lá, hạn chế uống rượu, bia, nước có ga và ăn, uống đồ ngọt Với người có cân nặng thấp, suy dinh dưỡng thường yếu, dễ bị ốm, lao động và học tập kém hiệu quả. Ngược lại ở người thừa cân, béo phì lại có nhiều nguy cơ bị mắc các bệnh về tim mạch, đái tháo đường, tăng huyết áp và một số loại ung thư. Tăng cường hoạt động thể lực, duy trì cân nặng ở mức hợp lý, không hút thuốc lá, hạn chế uống rượu bia, nước có gas và ăn, uống đồ ngọt nhằm duy trì cân nặng ở mức hợp lý, hạn chế bị bệnh. Nguồn: Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Đà Nẵng

TÌNH TRẠNG BÉO PHÌ HIỆN NAY

Số người Việt béo phì tăng nhanh nhất Đông Nam Á Tỷ lệ mắc béo phì của Việt Nam không cao so với khu vực nhưng tốc độ tăng đang nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á, ở mức 38%. "Đáng báo động là tình trạng béo phì ở trẻ em độ tuổi đi học, tăng từ 8,5% lên 19% chỉ trong vòng 10 năm (2010-2020), đặc biệt khu vực thành thị cao gấp đôi nông thôn", bác sĩ Đặng Trúc Lan Trinh, Phó khoa Nội tiết - Thận, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, nói tại hội nghị khoa học thường niên, ngày 29/7. Tính trên tổng dân số, tỷ lệ người béo phì ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp hơn so với các nước như Malaysia, Thái Lan nhưng tốc độ tăng năm sau cao hơn nhiều so với năm trước. Cụ thể, tỷ lệ gia tăng béo phì hàng năm ở nước ta là 38%, so với mức 10-20% của các nước Đông Nam Á. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ghi nhận khoảng 1,9 tỷ người thừa cân béo phì, trong đó một tỷ người béo phì trên toàn cầu, ước tính tăng thêm khoảng 167 triệu người năm 2025. Theo bác sĩ Trinh, béo phì là sự tích lũy mỡ bất thường và quá mức ở một số bộ phận hay toàn bộ cơ thể. Bệnh làm tăng gánh nặng nền kinh tế, ảnh hưởng sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống. Đây là nguyên nhân khiến nguy cơ tử vong sớm tăng cao với khoảng 2,8 triệu người chết hàng năm, đặc biệt là tình trạng béo phì ở trẻ em. Trước đây, béo phì không được công nhận là bệnh lý, bị từ chối chi trả bảo hiểm. Gần đây, béo phì được các tổ chức y tế bao gồm WHO và Hiệp hội Y khoa Mỹ (AMA) công nhận là một bệnh mạn tính, phức tạp, đa yếu tố, đòi hỏi phải quản lý và điều trị lâu dài. "Chúng ta cần thay đổi quan niệm không đúng, cho đây là bệnh do lối sống sai lầm, sự thiếu ý chí, hay chỉ xem nó là yếu tố nguy cơ của bệnh lý khác", bác sĩ Trinh nói. Trên thực tế, bệnh có thể do gene, tâm lý xã hội hoặc các yếu tố như thần kinh, chuyển hóa, môi trường. Bệnh có thể do tiêu thụ nhiều chất béo, thức ăn đồ uống ngọt, ít vận động, thiếu ngủ, hút thuốc lá nhiều, dùng thuốc điều trị tâm thần, thuốc corticoid...